NGÀNH CNTT TUYỂN SINH NHIỀU CHỈ TIÊU NGÀNH CNTT, CNTT VIỆT NHẬT VÀ KHOA HỌC DỮ LIỆU

PHƯƠNG PHÁP HỌC TRỰC TUYẾN HIỆU QUẢ

on .

 Nhóm Công nghệ thông tin CLC định hướng Nhật Bản  2019.1

I.  MỞ ĐẦU

Con người ngày càng có xu hướng sử dụng công nghệ để học tập những kiến thức mình mong muốn để tiết kiệm chi phí và thời gian. Xu hướng học tập trực tuyến ngày càng phát triển và mở rộng từ bậc Đại học xuống đến bậc THPT và các bậc học thấp hơn. Đặc biệt là trong lúc thế giới đang đối đầu với dịch Covid-19 như hiện nay, thì học online đang là một xu thế phát triển tất yếu . Nhằm giữ khoảng cách an toàn, hạn chế tiếp xúc giữa mọi người với nhau mà vẫn đảm bảo việc học tập không bị gián đoạn.

II.  SỰ KHÁC NHAU GIỮA HỌC ONLINE VÀ OFFLINE

HỌC ONLINE

HỌC OFFLINE

Tiết kiệm và linh hoạt về thời gian

Bó buột trong một khoảng thời gian nhất định

Tiết kiệm chi phí,công sức cho cả giảng viên và học sinh

Chi phí tốn kém và tốn nhiều công sức..

Kiểm soát được quá trình học tập qua các công cụ đánh giá.

Đánh giá kết quả thông qua các bài kiểm tra

Số lượng học sinh không bị gới hạn

Số lượng học sinh bị giới hạn, bị giới hạn bởi không gian và địa lý.

Có thể lưu trữ được các bài học , phục vụ cho việc ôn tập lại kiến thức của học viên

Giảng viên giảng dạy một lần theo giáo án và công cụ lưu giữ duy nhất là tập giấy của học viên.

Cung cấp tài nguyên học tập phong phú cho người học

Tài liệu học tập chủ yếu : Tài liệu nội bộ của trường, sách giáo trình và sách tham khảo.

Người học có thể chủ động lừa chọn cách học và tốc độ học phù hợp cho bản thân

Chương trình và tốc đô học do giáo viên đưa ra chung cho tất cả học sinh dựa trên khung chương trình chuẩn.

Tạo các kênh tương tác giữa những người học với nhau. Góp phần nâng cao hiệu quả học tập

Sự tương tác giữa mọi người còn hạn chế, bởi lí do thời gian và không gian địa lí.

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO VỊ THẾ KHOA KH&KTTT

on .

Lê Anh Tuấn - CH1402

 I.     MỞ ĐẦU

Với nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực CNTT cho miền nam và quốc gia, Khoa Khoa học và Kỹ thuật thông tin thuộc ĐHQG-HCM đóng vai trò hạt nhân tạo ra kho tàng tri thức mới, nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, phục vụ phát triển kinh tế và xã hội. Là một trong những đơn vị đầu ngành về KHCN, cùng với đội ngũ giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ giàu kinh nghiệm, giảng viên trẻ năng động và sáng tạo, Khoa luôn nỗ lực không ngừng đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm hướng tới mục tiêu có thêm nhiều đột phá về công nghệ trong thời đại công nghiệp 4.0, góp phần nâng cao vị thế và danh tiếng của Khoa đối với các trường đại học trong và ngoài nước.

Tuy nhiên, trong giai đoạn chuyển đổi số hiện nay, cần thêm những ý tưởng hỗ trợ Khoa trong việc xây dựng các giải pháp và công nghệ mới nhằm đón đầu xu hướng KHCN và đổi mới sáng tạo, khẳng định vị thế của Khoa đối với các đối tác trong khu vực và quốc tế. Bài báo này chúng tôi xin được trình bày một số quan điểm góp phần giải quyết các thách thức trên, cũng như một phần hỗ trợ tăng cường, củng cố vai trò của Khoa.

Mặt bằng thu nhập khối ngành kỹ thuật thấp hơn nhân văn?

on .

Thông thường chúng ta nghĩ ngành kỹ thuật, công nghệ có cơ hội rộng mở, mức lương “khủng”, nhưng một nghiên cứu sử dụng số liệu cuộc Điều tra lao động và việc làm toàn quốc năm 2018 của Tổng cục Thống kê cho thấy mặt bằng thu nhập của nhóm ngành kỹ thuật/công nghệ, khoa học tự nhiên, kinh doanh/tài chính, nông nghiệp/thú y thấp hơn nhóm ngành nhân văn/nghệ thuật.


Ảnh minh họa: mitc.edu.vn

Kết quả bất ngờ đó được đề cập trong công bố “Sự khác biệt tiền lương theo ngành học đại học: bằng chứng từ các cử nhân đại học ở Việt Nam”, trên tạp chí International Journal of Educational Development1 vào tháng 10 vừa qua của TS Trần Quang Tuyến và TS Vũ Văn Hưởng, Khoa Quốc tế, ĐHQG Hà Nội. Các tác giả sử dụng mô hình phân tích kinh tế lượng để đánh giá sự khác biệt tiền lương theo ngành học đại học, mô hình có kiểm soát các đặc điểm về kinh nghiệm, giới tính, nghề nghiệp, khu vực việc làm, việc làm đúng ngành học và khu vực địa lý. Kết quả cho thấy tiền lương trung bình của nhóm ngành nhân văn/nghệ thuật cao hơn so với nhóm ngành kỹ thuật/công nghệ, khoa học tự nhiên, kinh doanh/tài chính, nông nghiệp/thú y.

Chuyển đổi số tại khoa Khoa học và Kỹ thuật Thông tin, Trường Đại học Công nghệ thông tin (UIT), ĐHQG-HCM

on .

Nguyễn Thị Thu Vân - CH1902027 

Mở đầu

Ngày 3/6/2020, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký Quyết định số 749 phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với tầm nhìn đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng. Theo Chương trình này, Việt Nam tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới, đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp. Trong quyết định này, có 8 lĩnh vực được xác định là ưu tiên trong chuyển đổi số, trong đó có giáo dục.

Trong năm 2020 vừa qua, khi dịch Covid-19 bắt đầu xuất hiện, nhiều trường học đã buộc phải đóng cửa. Đây cũng là lý do dẫn tới sự phổ biến của việc dạy và học trên truyền hình cũng như trên các nền tảng trực tuyến. Các ứng dụng dạy học trực tuyến như Zoom, Microsoft Teams, Google Classroom… cũng ngày càng trở nên phổ biến và được nhiều giáo viên và nhà trường sử dụng. Sự phát triển của các mô hình học tập trực tuyến tại Việt Nam thậm chí còn được ghi nhận bởi các tổ chức uy tín trên toàn cầu.

Trên cơ sở đó, trong bài viết này, xin chia sẻ một vài điển hình trên thế giới, mô hình hoạt động chuyển đổi số (CĐS) đã và đang triển khai tại Khoa Khoa học và Kỹ thuật Thông tin (KH&KTTT) - Trường Đại học Công nghệ thông tin (UIT), Đại học Quốc gia TP.HCM (ĐHQG-HCM). Từ đó, kiến nghị một số giải pháp mở rộng để phát triển cho Nhà trường và cũng có thể làm mô hình tham khảo cho các cơ sở giáo dục đào tạo khác.